Cây đèn đồng hình người quỳ bảo vật quốc gia
Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015
Cây đèn đồng hình người quỳ Lạch Trường là một hiện vật độc đáo tiêu biểu vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn, đã được chính thức đề nghị trở thành bảo vật quốc gia. Cây đèn thể hiện kỹ thuật đúc khéo léo và phản ảnh cảm quan về vũ trụ của cư dân cổ đại trong giai đoạn này.
Cách đây hơn 2.000 năm, một vị già làng và đồ vật của ông ta đã được an táng tại khu mộ ở Lạch Trường, bên bờ biển Đông. Năm 1935, nhà khảo cổ học Thụy Điển Olov Jane và Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) đã tìm thấy “Cây đèn hình người quỳ” tại khu mộ này trong một cuộc khai quật.
Trong một chuyến khảo sát, O.Jane và cộng sự vô tình tìm thấy một khu mộ cổ lớn có khoảng 6 ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán. Khi khai quật, đoàn khảo cổ thất vọng vì thấy các ngôi mộ đã bị bọn trộm mộ đào bới. Một số đồ vật quý đã bị lấy chỉ chừa lại một số vòng đá và hiện vật bằng đồng nghèo nàn. Đến ngôi mộ thứ 3, nằm theo hướng Bắc Nam, “lối vào” bị chắn bởi một bức tường cao bằng gạch đá theo kiểu “thần gác cổng Hermes”. Ngôi mộ này được xây từ thời nhà Hán và chưa bị xâm hại. Đoàn khảo cổ phát hiện một lượng lớn đồ gốm Trung Hoa, một thanh kiếm sắt, một cây đèn bằng đồng hình người quỳ và nhiều chũm chọe. Đây là những cổ vật hiếm và không theo kiểu chôn đồ tế lễ dưới thời Hán.
Cây đèn hình người quỳ đang được lưu giữ tại Bảo Tàng Lịch sử Việt Nam.
Cây đèn đồng hình người quỳ cao 40cm, dài 30cm, rộng 24cm, nặng 1,9kg. Hai vai và trên lưng có 3 cành hình chữ “S”. Trên mỗi nhành chữ “S” đỡ một bát đèn dầu. Ở cuối mỗi cành lại có hình người hai tay đang ôm lấy, xen giữa mỗi cành là một người nhỏ đang quỳ, tay chắp lại vái nhau. Có thể xác định họ là các vũ công. Trên chân của tượng có 4 nhạc công cũng đang ở tư thế quỳ : 2 người thổi sáo và 2 người còn lại đang chơi một thứ nhạc cụ gì đó.
Tóc người đàn ông này được thể hiện bằng những cuộn hình xoắn ốc. Đặc điểm này thường thấy ở các tượng Phật của Ấn Độ, Viễn Đông và cũng tiêu biểu cho nghệ thuật Gandhara Hy Lạp cổ đại. Xung quang trán có một vành khăn hoặc một vương niệm. Trong văn hóa Địa Trung Hải cổ điển, đây là dấu hiệu của những bậc vương giả. Con mắt không nhìn xuôi có tỷ lệ lớn mở rộng. Xung quanh vành môi là ria mép mỏng và bộ râu chia đôi phần cằm. Đây là đặc điểm khá phổ biến trong các bộ tộc miền núi ở miền Tây Pakistan. Hình trên các cánh tay cũng được trang trí tinh tế; vòng bụng đầy đặn thể hiện sự sung túc của bản thân; bắp chân khuỳnh ra ở vị trí của nguời có thế lực được tôn kính. Vòng ở cánh tay và thắt lưng đều mang mô típ hoa sen.
O.Jane cho rằng : Mặc dù người đàn ông được tạo ra ở tư thế quỳ nhưng đây không phải là người có vị trí thấp hèn. Vòng trên đầu và những vật trang điểm cho thấy đây là bức tượng thể hiện một bá tước hoặc một vị thần vì trong thần thoại Hy Lạp các vị thần thường được mô tả ở tư thế quỳ.
Một số nhà nghiên cứu khác lại muốn đưa cây đèn về một nền văn hóa gần hơn : văn hóa Trung Nguyên của người Hán, mang tư tưởng Hán. Theo cách lý giải này thì thân phận người đàn ông trên cây đèn không mang sự tôn quý và thần thánh mà là một tù binh Hung nô bị bắt và trở thành người hầu bê đèn. Quan điểm này trung hòa và “Cây đèn hình người quỳ” là hiện vật của sự tiếp biến văn hóa, định danh Việt- Hán.
Trong quá trình nghiên cứu bộ sưu tập hơn 20 cây đèn cùng niên đại với “Cây đèn hình người quỳ”, TS. Phạm Quốc Quân lại đưa ra một giải thích khác : những cây đèn hình người với nhiều tư thế quỳ khác nhau về vẻ mặt và cách cầm đèn; những đèn hình thú: linh thú, bò, hươu, voi…đa dạng và phong phú được diễn tả sinh động với nhiều kiểu dáng khác nhau; những đèn treo, đèn móc, đĩa đèn ba chân quỳ và móc đèn hình rồng dễ làm người ta liên tưởng đến những loại đồ đồng thời đầu Công Nguyên được du nhập vào. Không đặt cây đèn vào khuôn khổ để so sánh với nhiều nền văn hóa khác, ông đã chỉ ra từng chi tiết trên cây đèn chứng tỏ rằng cây đèn Lạch Trường không hề Tây, không hề Hán. Ông cho rằng cây đèn thuộc nền văn hóa “Hậu Đông Sơn”. Đây là sản phẩm của Đông Sơn, mang nguồn gốc và đậm chất Đông Sơn.
TS. Phạm Quốc Quân bày tỏ : “Đèn thời Hậu Đông Sơn phong phú nhất về số lượng và hình dáng. Nó là hiện tượng nổi bật trong lịch sử đèn Việt Nam. Trong các quan niệm tôn giáo thần bí phương Đông hay trong các hoạt động tế lễ về ban đêm thì ánh sáng đóng vai trò cơ bản. Điều này có quan hệ gần gũi với những ý tưởng về vũ trụ bao la và được xem là phản ánh sự cao quý của mặt trời, mặt trăng và sao. Ánh sáng là biểu tượng của tâm hồn và chứa đựng nội dung thiêng liêng. Ánh sáng phát ra từ cây đèn như hào quang chói lọi. Ánh hào quang ấy đem lại sự tôn kính thần thánh, tín ngưỡng và sự bất tử. Những cây đèn có thể xem là biểu hiện luân hồi của tạo hóa. Điều đó có nghĩa, chúng là vật chỉ đường dẫn lối cho người chết trong cuộc du ngoạn ở thế giới bên kia.”
Còn O.Jane nhìn nhận : Cây đèn hình người quỳ như một sự tái hiện của nhân vật quá cố chịu ảnh hưởng hoặc có thể tái hiện vai trò của thánh Dionyos. Điều đó cho thấy rằng, đây không những là linh hồn trong các buổi tế lễ mà còn là những cuộc viễn du của con người sau khi qua đời ở “những nơi vàng son” được nhân cách hóa sự tái sinh của cuộc sống, là niềm hy vọng vĩnh hằng về sự bất tử. Đó là cơ sở cho các quan niệm về tôn giáo qua mọi thời đại.
Xem thêm: Quà tặng gốm sứ Bát Tràng
Sửa chữa laptop uy tín tại Hà Nội
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét